Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) là một trong những thỏa
thuận thương mại lớn nhất của thế kỷ 21. Đây được xem là bước ngoặc lịch sử khi
thương mại hóa và toàn cầu hóa được mở cửa sâu rộng. Đây cũng là cơ hội rất to
lớn nhưng cũng là thách thức lớn không chỉ riêng Việt Nam mà còn của thành viên
các nước tham gia. Để hiểu rõ hơn nội dung quan trọng của hiệp định thương mại
này. I Khám Phá xin tóm lược các phần chính được nêu trong TPP để các bạn tham
khảo.
Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương - TPP |
Ngày
05 tháng 10 năm 2015, Bộ trưởng của 12 nước tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) gồm Brunei, Chile,
New Zealand, Singapore, Hoa Kỳ, Úc, Peru, Việt Nam, Malaysia, Mexico, Canada và
Nhật Bản đã tuyên bố kết thúc đàm phán. Kết quả đàm phán là một hiệp định chất lượng cao, tham vọng,
toàn diện và cân bằng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; hỗ trợ tạo ra và duy trì
việc làm; thúc đẩy việc đổi mới, năng suất và tính cạnh tranh; nâng cao mức sống;
giảm nghèo tại các nước; và nâng cao minh bạch hóa, quản trị tốt cũng như bảo hộ
lao động và bảo vệ môi trường. Chúng tôi coi việc kết thúc đàm phán hiệp định này với các tiêu chuẩn mới và
cao về thương mại và đầu tư tại khu vực
Châu Á Thái Bình Dương là một bước
quan trọng để tiến tới mục tiêu cao nhất về thương
mại tự do và hội nhập trên toàn khu vực.
CÁC ĐẶC ĐIỂM CHÍNH
Có
5 đặc điểm chính làm TPP trở thành một hiệp định mang tính bước ngoặc của thế kỷ
21, tạo ra một tiêu chuẩn mới cho thương
mại toàn cầu trong khi vẫn đề cập tới các vấn đề mang tính thế hệ mới. Các
đặc điểm đó bao gồm:
•
Tiếp cận thị trường một
cách toàn diện. Hiệp định TPP cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế về
căn bản đối với tất cả thương mại
hàng hóa và dịch vụ và điều chỉnh toàn bộ các lĩnh vực về thương mại trong đó có thương
mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư nhằm tạo ra các cơ hội và lợi ích mới cho
doanh nghiệp, người lao động và người tiêu dùng của các nước thành viên.
•
Tiếp cận mang tính khu vực
trong việc đưa ra các cam kết. Hiệp định TPP tạo thuận lợi cho việc
phát triển sản xuất và dây chuyền cung ứng, cũng như thương mại không gián đoạn, đẩy mạnh tính hiệu quả và hỗ trợ thực
hiện mục tiêu về tạo việc làm, nâng cao mức sống, thúc đẩy các nỗ lực bảo tồn
và tạo thuận lợi cho việc hội nhập qua biên giới cũng như mở cửa thị trường
trong nước.
•
Giải quyết các thách thức mới
đối với thương mại. Hiệp định TPP thúc đẩy việc đổi mới, năng
suất và tính cạnh tranh thông qua việc giải quyết các vấn đề mới, trong đó bao
gồm việc phát triển nền kinh tế số và vai trò ngày càng tăng của các doanh nghiệp
Nhà nước trong nền kinh tế toàn cầu.
•
Bao hàm toàn bộ các yếu tố
liên quan đến thương mại. Hiệp định TPP bao gồm các yếu tố mới được
đưa ra để bảo đảm rằng các nền kinh tế ở tất cả các cấp độ phát triển và doanh
nghiệp thuộc mọi quy mô đều có thể hưởng lợi từ thương mại. Hiệp định bao gồm các cam kết nhằm giúp đỡ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ hiểu rõ về Hiệp định,
tận dụng được những cơ hội mà Hiệp định mang
lại và nêu lên những thách thức đáng chú ý tới chính phủ các nước thành viên. Hiệp định cũng bao gồm những cam kết cụ
thể về phát triển và nâng cao năng lực thương
mại để đảm bảo rằng tất cả các Bên đều có thể đáp ứng được những cam kết
trong Hiệp định và tận dụng được đầy
đủ những lợi ích của Hiệp định.
•
Nền tảng cho hội nhập khu vực. Hiệp định TPP được ra đời
để tạo ra nền tảng cho việc hội nhập kinh tế khu vực và được xây dựng để bao
hàm cả những nền kinh tế khác xuyên khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
PHẠM VI
•
Hiệp định TPP gồm có 30 chương điều chỉnh thương
mại và các vấn đề liên quan tới thương
mại, bắt đầu từ thương mại hàng
hóa và tiếp tục với hải quan và thuận lợi hóa thương mại; vệ sinh kiểm dịch động thực vật; hàng rào kỹ thuật đối
với thương mại; quy định về phòng vệ thương mại; đầu tư; dịch vụ; thương mại điện tử; sở hữu trí tuệ; lao
động; môi trường; các chương về “các vấn đề xuyên suốt” nhằm bảo đảm Hiệp định TPP đạt được tiềm năng của
mình về phát triển, tính cạnh tranh và tính bao hàm; giải quyết tranh chấp; ngoại
lệ và các điều khoản về thể chế.
•
Như đã đề cập ở phía trên, bên cạnh việc nâng cấp cách tiếp cận truyền
thống đối với những vấn đề đã được điều chỉnh bởi các hiệp định thương mại tự
do trước đó (FTAs), Hiệp định TPP
còn đưa vào những vấn đề thương mại mới
và đang nổi lên cũng như những vấn đề xuyên suốt. Những vấn đề này bao gồm những
nội dung liên quan đến Internet và nền kinh tế số, sự tham gia ngày càng tăng của
các doanh nghiệp Nhà nước vào thương mại
và đầu tư quốc tế, khả năng của các doanh nghiệp nhỏ trong việc tận dụng các hiệp định thương mại và những nội dung khác.
•
Hiệp định TPP tập hợp một nhóm các
nước khác nhau – khác nhau về địa lý, ngôn ngữ và lịch sử, quy mô và mức độ
phát triển. Tất cả các nước TPP đều nhận thức rằng tính đa dạng
về phát triển là một tài sản độc đáo nhưng cũng yêu cầu sự hợp tác chặt chẽ,
xây dựng năng lực cho các nước TPP có trình độ phát triển thấp hơn,
và trong một số trường hợp, giai đoạn chuyển đổi và cơ chế đặc biệt cho phép một
số thành viên TPP một khoảng thời gian bổ sung cần thiết để nâng cao năng lực
thực thi các nghĩa vụ mới.
TẠO RA CÁC QUY TẮC THƯƠNG MẠI KHU VỰC
Dưới
đây là bản tóm tắt 30 chương của Hiệp định
TPP.
Các lộ trình cam kết và phụ lục được quy định kèm theo các chương này liên quan
tới thương mại hàng hóa và dịch vụ, đầu
tư, mua sắm chính phủ và nhập cảnh tạm thời của khách kinh doanh. Ngoài ra,
chương về Doanh nghiệp Nhà nước bao gồm các ngoại trừ của từng nước được quy định
trong phụ lục kèm theo chương.
1. Các điều khoản ban đầu và định nghĩa chung
Nhiều
thành viên TPP đang có các hiệp định
với nhau. Chương về Các điều khoản ban đầu và định nghĩa chung giải thích rõ mối
quan hệ giữa TPP với các hiệp định
thương mại quốc tế đang có giữa các
Bên, trong đó có Hiệp định WTO, các hiệp định song phương và khu vực. Chương
này cũng đưa ra các định nghĩa cho các thuật ngữ được sử dụng trong nhiều hơn một
chương của Hiệp định.
2. Thương mại hàng hóa
Các
Bên tham gia TPP nhất trí xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi
thuế quan đối với hàng hóa công nghiệp và xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan cũng
như các chính sách mang tính hạn chế khác đối với hàng hóa nông nghiệp. Việc tiếp
cận mang tính ưu đãi thông qua Hiệp địnhTPP
sẽ làm gia tăng thương mại giữa các
nước TPP
với thị trường gồm 800 triệu dân và sẽ hỗ trợ cho việc làm chất lượng cao tại tất
cả 12 nước thành viên. Việc xóa bỏ phần lớn thuế quan đối với hàng công nghiệp
sẽ được thực hiện ngay lập tức mặc dù thuế quan đối với một số mặt hàng sẽ được
xóa bỏ với lộ trình dài hơn do các Bên thống nhất. Việc cắt giảm thuế cụ thể do
các Bên thống nhất được quy định tại lộ trình cam kết bao gồm tất cả hàng hóa
và được đính kèm theo lời văn của Hiệp định.
Các Bên tham gia TPP sẽ công bố các lộ trình này và những thông tin khác liên
quan tới thương mại hàng hóa để bảo đảm
rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các doanh nghiệp lớn có thể tận dụng
được Hiệp định TPP. Các Bên cũng nhất
trí không sử dụng các yêu cầu về thực hiện như là điều kiện để một số nước áp đặt
cho các doanh nghiệp để được hưởng các lợi ích về thuế quan. Ngoài ra, các Bên
nhất trí không áp dụng các hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu và các loại thuế không
phù hợp với WTO, bao gồm cả đối với hàng tân trang - việc này được cho là sẽ thúc đẩy việc tái
chế tất cả các bộ phận để chuyển thành các sản phẩm mới. Nếu các Bên TPP
duy trì yêu cầu cấp phép nhập khẩu hoặc xuất khẩu thì phải thông báo cho các
Bên kia về những quy trình không nhằm mục đích làm chậm sự lưu thông thương mại.
Đối
với hàng nông nghiệp, các Bên sẽ xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các chính
sách mang tính hạn chế khác để gia tăng thương
mại hàng nông nghiệp trong khu vực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao
an ninh lương thực và hỗ trợ việc làm cho người nông dân và chủ trại nuôi gia
súc của các nước TPP. Bên cạnh việc xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan, các Bên TPP
nhất trí thúc đẩy cải cách về mặt chính sách, bao gồm cả việc thông qua xóa bỏ
trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp, hợp tác trong WTO để xây dựng các quy định về
tín dụng xuất khẩu và giới hạn khoảng thời gian cho phép áp dụng các hạn chế đối
với xuất khẩu lương thực nhằm bảo đảm hơn nữa an ninh lương thực trong khu vực.
Các Bên tham gia TPP nhất trí nâng cao tính minh bạch hóa liên quan đến việc vận
hành doanh nghiệp thương mại nhà nước
xuất khẩu và đưa ra các quy định hạn chế việc cấp vốn ưu đãi từ Chính phủ hoặc
các chính sách khác gây bóp méo thương mại
nông sản, cũng như yêu cầu về minh bạch hóa và phối hợp trong các hoạt động cụ
thể liên quan đến công nghệ sinh học nông nghiệp và nông nghiệp hữu cơ.
3. Dệt may
Các
Bên tham gia TPP nhất trí xóa bỏ thuế quan đối với hàng dệt may – ngành công
nghiệp đóng vai trò quan trọng vào tăng trưởng kinh tế tại một số thị trường của
các nước TPP. Hầu hết thuế quan sẽ được xóa bỏ ngay lập tức, mặt dù thuế
quan đối với một số mặt hàng nhạy cảm sẽ được xóa bỏ với lộ trình dài hơn do
các Bên thống nhất. Chương Dệt may cũng bao gồm các quy tắc xuất xứ cụ thể yêu
cầu việc sử dụng sợi và vải từ khu vực TPP
- điều này sẽ thúc đẩy việc thiết lập các chuỗi cung ứng và đầu tư khu vực
trong lĩnh vực này, cùng với cơ chế “nguồn cung thiếu hụt” cho phép việc sử dụng
một số loại sợi và vải nhất định không có sẵn trong khu vực. Ngoài ra, Chương
này còn bao gồm các cam kết về hợp tác và thực thi hải quan nhằm ngăn chặn việc
trốn thuế, buôn lậu và gian lận cũng như cơ chế tự vệ đặc biệt đối với dệt may
để đối phó với thiệt hại nghiêm trọng hoặc nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng đối
với ngành sản xuất trong nước trong trường hợp có sự gia tăng đột biến về nhập
khẩu.
4. Quy tắc xuất xứ
Để
gỡ rối tình trạng “bát mỳ ống” của quy tắc xuất xứ gây trở ngại cho doanh nghiệp
trong việc tận dụng các FTA trước đó trong khu vực, thúc đẩy chuỗi cung ứng khu
vực và bảo đảm rằng các nước TPP sẽ là những người hưởng lợi
chính của Hiệp định hơn là các nước
không phải là thành viên, 12 nước Thành viên TPP đã thống nhất về một
bộ quy tắc xuất xứ chung để xác định một hàng hóa cụ thể “có xuất xứ” và do vậy
được hưởng thuế quan ưu đãi trong TPP. Quy tắc xuất xứ cụ thể theo mặt
hàng được quy định kèm theo lời văn của Hiệp
định. Hiệp định TPP
quy định về “cộng gộp” để các nguyên liệu đầu vào từ một Bên TPP
được đối xử như những nguyên liệu từ một Bên khác nếu được sử dụng để sản xuất
ra một sản phẩm tại bất kỳ một Bên TPP. Các Bên tham gia TPP
cũng đưa ra các quy tắc để bảo đảm rằng doanh nghiệp có thể hoạt động một cách
dễ dàng xuyên khu vực TPP thông qua việc thiết lập một hệ
thống chung trên toàn TPP về chứng minh và kiểm tra xuất xứ
của hàng hóa TPP. Các nhà nhập khẩu sẽ có thể yêu cầu được hưởng ưu đãi về
xuất xứ với điều kiện họ có các chứng từ chứng minh. Ngoài ra, Chương này cung
cấp cho các cơ quan có thẩm quyền công cụ cần thiết để xác minh các yêu cầu về
hưởng ưu đãi một cách có hiệu quả.
5. Quản lý hải quan và thuận lợi hóa thương mại
Bên
cạnh các nỗ lực trong khuôn khổ WTO về thuận lợi hóa thương mại, các Bên TPP đã nhất trí về các quy tắc nhằm
thúc đẩy việc tạo thuận lợi cho thương mại,
nâng cao tính minh bạch hóa trong các thủ tục hải quan và bảo đảm tính chính trực
trong việc quản lý hải quan. Những quy tắc này sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp TPP
bao gồm cả doanh nghiệp vừa và nhỏ, khuyến khích các quy trình vận hành thủ tục
hải quan nhanh chóng và thúc đẩy chuỗi cung ứng khu vực. Các Bên TPP
đã nhất trí minh bạch hóa các quy tắc, trong đó có việc công bố các luật và quy
định về hải quan cũng như quy định về giải phóng hàng hóa không chậm chễ và ký
quỹ hoặc thanh toán bắt buộc trong trường hợp hải quan chưa đưa ra quyết định về
số thuế hoặc phí phải trả. Các nước TPP nhất trí áp dụng những quy định
thông báo trước về xác định trị giá hải quan và các vấn đề khác nhằm giúp cho
doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp lớn và nhỏ, kinh doanh với khả năng có thể
dự báo trước được tình hình. Các nước cũng nhất trí về các quy định liên quan tới
xử phạt hải quan để bảo đảm các hình thức xử phạt này được thực hiện một cách
công bằng và minh bạch. Bên cạnh đó, vì tầm quan trọng của chuyển phát nhanh đối
các lĩnh vực kinh doanh, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nước TPP
đã nhất trí về các quy định hải quan đối với chuyển phát nhanh. Để hỗ trợ việc
chống buôn lậu và trốn thuế, các nước TPP nhất trí cung cấp thông tin khi
được yêu cầu để hỗ trợ lẫn nhau trong việc thực thi luật hải quan.
6. Các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động thực vật
Liên
quan đến việc cải tiến các quy định về SPS, các nước TPP đã chia sẻ mối quan
tâm trong việc bảo đảm các quy định dựa trên căn cứ khoa học mang tính minh bạch,
không phân biệt đối xử, và tái khẳng định quyền của các nước trong việc bảo đảm
an ninh lương thực và bảo vệ sức khỏe vật nuôi và cây trồng tại nước mình. Hiệp định TPP dựa trên các quy định
của Hiệp định SPS của WTO về xác định
và quản lý rủi ro theo một cách không hạn chế thương mại hơn mức cần thiết. Các nước TPP nhất trí cho phép
công chúng được đóng góp ý kiến vào các dự thảo quy định SPS trong quá trình
đưa ra quyết định và ban hành chính sách cũng như để bảo đảm rằng doanh nghiệp
hiểu rõ các quy định mà họ sẽ phải tuân thủ. Các nước nhất trí rằng việc kiểm
tra hàng hóa đáp ứng các quy định SPS được dựa trên các rủi ro tiềm tàng trên
thực tế có gắn với việc nhập khẩu và thông báo cho nhà nhập khẩu hoặc xuất khẩu
trong vòng bảy ngày nếu hàng hóa bị cấm nhập khẩu vì lý do liên quan đến SPS.
Các Bên cũng nhất trí rằng các biện pháp khẩn cấp cần thiết để bảo vệ sức khỏe
con người, động thực vật có thể được thực hiện với điều kiện Bên thực hiện biện
pháp đó phải thông báo cho tất cả các Bên về sự cần thiết mang tính khoa học của
biện pháp được áp dụng. Ngoài ra, các Bên cam kết cải thiện việc trao đổi thông
tin liên quan tới các yêu cầu về tương đương và khu vực hóa, cũng như đẩy mạnh
việc kiểm tra trên toàn hệ thống để đánh giá tính đầy đủ trong việc kiểm soát về
mặt quy định đối với an toàn thực phẩm của các Bên TPP. Trong nỗ lực giải
quyết nhanh các vấn đề SPS phát sinh giữa các Bên, các Bên đã nhất trí thiết lập
một cơ chế tham vấn giữa các chính phủ.
7. Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT)
Các
thành viên TPP đã nhất trí về các nguyên tắc minh bạch và không phân biệt
đối xử khi xây dựng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự
phù hợp, trong khi vẫn bảo lưu quyền của các thành viên TPP trong quản lý vì các
lợi ích công cộng. Các thành viên TPP đồng ý hợp tác để đảm bảo rằng
các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật không tạo ra rào cản không cần thiết đối với
thương mại. Để cắt giảm chi phí cho
các doanh nghiệp TPP, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ, các thành viên TPP
nhất trí các quy định giúp xóa bỏ các quy trình kiểm tra và chứng nhận trùng lắp
đối với các sản phẩm, thiết lập quy trình dễ dàng hơn giúp các công ty tiếp cận
thị trường các nước TPP. Trong Hiệp định TPP,
các thành viên phải cho phép công chúng góp ý đối với dự thảo các quy định,
tiêu chuẩn kỹ thuật và đánh giá sự phù hợp trong quá trình xây dựng chính sách
và để đảm bảo rằng các thương nhân hiểu rõ các quy định mà họ cần phải thực hiện.
Các thành viên cũng sẽ đảm bảo một khoảng thời gian hợp lý giữa thời điểm công
bố các quy định kỹ thuật và đánh giá sự phù hợp và thời điểm có hiệu lực để các
doanh nghiệp có đủ thời gian đáp ứng các yêu cầu mới. Ngoài ra, Hiệp định TPP bao gồm các phụ lục
liên quan tới các quy định về các lĩnh vực cụ thể nhằm thúc đẩy các cách tiếp cận
chung về chính sách trong khu vực TPP. Các lĩnh vực này bao gồm mỹ phẩm,
thiết bị y tế, dược phẩm, các sản phẩm
công nghệ thông tin và truyền thông, rượu và đồ uống có cồn, thực phẩm và các
chất gây nghiện và các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.
8. Phòng vệ thương
mại
Chương
Phòng vệ thương mại thúc đẩy minh bạch
hóa và quy trình thủ tục trong các vụ kiện phòng vệ thương mại thông qua việc công nhận các thực tiễn tốt nhất nhưng
không ảnh hưởng đến các quyền và nghĩa vụ của các thành viên TPP
trong WTO. Chương này đưa ra một cơ chế tự vệ tạm thời, cho phép một thành viên
thực hiện một biện pháp tự vệ tạm thời trong một khoảng thời gian cụ thể nếu việc
nhập khẩu tăng đột biến do kết quả của việc cắt giảm thuế được thực hiện theo Hiệp định TPP đủ để gây ra thiệt hại
nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước. Các biện pháp này có thể được
duy trì lên tới 2 năm, với việc gia hạn 1 năm, nhưng phải được tự do hóa dần dần
nếu các biện pháp này đã kéo dài hơn 1 năm. Các thành viên áp dụng các biện
pháp tự vệ sẽ phải thực hiện các yêu cầu thông báo và tham vấn. Chương này cũng
đưa ra các quy định yêu cầu một thành viên TPP đang áp dụng biện pháp tự vệ tạm
thời cung cấp khoản bồi thường được các bên thống nhất. Đồng thời, các thành
viên không được cùng lúc áp dụng nhiều hơn một biện pháp tự vệ được cho phép
trong TPP đối với một sản phẩm.
9. Đầu tư
Khi
xây dựng các quy định về đầu tư, các thành viên TPP đã đưa ra các nguyên
tắc yêu cầu các chính sách và bảo hộ đầu tư công bằng và không phân biệt đối xử
nhằm bảo đảm nguyên tắc cơ bản của luật pháp, trong khi vẫn bảo đảm khả năng của
Chính phủ các thành viên để đạt được các mục tiêu chính sách công hợp pháp. TPP
quy định sự bảo hộ đầu tư cơ bản như trong các hiệp định thương mại
khác, bao gồm: đối xử quốc gia; đối xử tối huệ quốc; “tiêu chuẩn đối xử tối thiểu”
đối với đầu tư trên cơ sở tập quán luật thương
mại quốc tế; nghiêm cấm việc trưng thu không vì mục đích công cộng, không
theo quy trình thủ tục và không có bồi thường; tự do chuyển tiền liên quan đến
đầu tư với các ngoại lệ trong Hiệp định
TPP
nhằm đảm bảo cho các Chính phủ giữ quyền linh hoạt quản lý các dòng vốn không ổn
định, bao gồm thông qua biện pháp tự vệ tạm thời không phân biệt đối xử (chẳng
hạn như kiểm soát vốn) nhằm hạn chế việc chuyển tiền liên quan đến đầu tư trong
trường hợp khủng hoảng hoặc có nguy cơ khủng hoảng cán cân thanh toán, và các
cuộc khủng hoảng kinh tế khác hoặc để đảm bảo sự toàn vẹn và ổn định của hệ thống
tài chính; nghiêm cấm “các yêu cầu thực hiện” chẳng hạn như yêu cầu về hàm lượng
nội địa hoặc tỷ lệ nội địa hóa công nghệ; và tự do bổ nhiệm các vị trí quản lý
cấp cao mà không quan tâm đến quốc tịch.
Các
thành viên chấp nhận các nghĩa vụ dựa trên cơ sở “một danh mục chọn bỏ”, nghĩa
là thị trường các nước là mở hoàn tòan đối với các nhà đầu tư nước ngoài, trừ
khi các Thành viên đưa ra một ngoại lệ (biện pháp bảo lưu không tương thích)
trong một trong hai Phụ lục cụ thể của quốc gia đó đính kèm Hiệp định TPP: (1) các biện pháp hiện
hành trong đó một quốc gia chấp nhận nghĩa vụ không đưa ra các biện pháp hạn chế
hơn trong tương lai và ràng buộc bất kỳ sự tự do hóa nào trong tương lai, và
(2) các biện pháp và chính sách mà theo đó một quốc gia duy trì quyền tự do làm
theo ý mình một cách đầy đủ trong tương lai. Chương này cũng đưa ra trọng tài
quốc tế trung lập và minh bạch đối với các tranh chấp về đầu tư, với cơ chế tự
vệ mạnh mẽ nhằm ngăn chặn các khiếu nại lạm dụng và không đáng kể và đảm bảo
quyền của các Chính phủ quản lý lợi ích công cộng, bao gồm bảo vệ sức khỏe, an
toàn và môi trường. Cơ chế tự vệ theo quy trình bao gồm: quy trình trọng tài
minh bạch, đệ trình của các bên quan tâm, đệ trình của bên thứ ba; việc rà soát
được tiến hành đối với các khiếu nại không đáng kể và quyết định về phí luật
sư; rà soát tạm thời và cơ chế quyết định; diễn giải chung mang tính ràng buộc
của các Bên TPP; các hạn chế thời gian thực hiện khiếu nại; và các quy định
nhằm ngăn chặn bên nguyên đơn theo đuổi một khiếu nại theo các quy trình song
song.
10. Thương mại
dịch vụ qua biên giới
Trên cơ sở tầm quan trọng ngày càng tăng của thương mại dịch vụ đối với các Thành
viên TPP,
12 quốc gia chia sẻ sự quan tâm về tự do hóa thương mại trong lĩnh vực này. TPP bao gồm các nghĩa vụ cốt lõi
trong WTO và các hiệp định thương mại khác: đối xử quốc gia; đối xử
tối huệ quốc; mở cửa thị trường yêu cầu không Thành viên TPP nào có thể áp dụng
các hạn chế định lượng đối với việc cung cấp dịch vụ (chẳng hạn như một hạn chế
về số lượng các nhà cung cấp hoặc số lượng các dịch vụ) hoặc yêu cầu thành lập
một loại thực thể pháp lý hoặc liên doanh cụ thể; và hiện diện địa phương,
nghĩa là không một nước nào có thể yêu cầu một nhà cung cấp dịch vụ từ một quốc
gia khác thiết lập một văn phòng hoặc liên kết hoặc cư trú trong lãnh thổ của
mình để được cung cấp dịch vụ. Các Thành viên TPP chấp nhận các nghĩa vụ
dựa trên cơ sở “một danh mục chọn bỏ”, nghĩa là thị trường các nước là mở hoàn
tòan đối với các nhà đầu tư nước ngoài, trừ khi các Thành viên đưa ra một ngoại
lệ (biện pháp bảo lưu không tương thích) trong một trong hai Phụ lục cụ thể của
quốc gia đó đính kèm Hiệp định TPP:
(1) các biện pháp hiện hành trong đó một quốc gia chấp nhận nghĩa vụ không đưa
ra các biện pháp hạn chế hơn trong tương lai và ràng buộc bất kỳ sự tự do hóa
nào trong tương lai, và (2) các biện pháp và chính sách mà theo đó một quốc gia
duy trì quyền tự do làm theo ý mình một cách đầy đủ trong tương lai.
Các
Thành viên TPP cũng đồng ý quản lý các biện pháp áp dụng chung theo cơ chế
hợp lý, khách quan và công bằng; và chấp nhận các yêu cầu về minh bạch hóa
trong xây dựng các quy định mới về dịch vụ. Các lợi ích của chương này có thể bị
từ chối đối với “các doanh nghiệp bên ngoài TPP” và một nhà cung cấp
dịch vụ được sở hữu bởi các bên không phải là Thành viên TPP và một Thành viên TPP
nghiêm cấm các giao dịch cụ thể với bên đó. Các Thành viên TPP đồng ý cho phép tự do
chuyển tiền liên quan tới cung cấp dịch vụ qua biên giới với các ngoại lệ của Hiệp định TPP nhằm đảm bảo cho các
Chính phủ giữ quyền linh hoạt quản lý các dòng vốn không ổn định, bao gồm thông
qua biện pháp tự vệ tạm thời không phân biệt đối xử (chẳng hạn như kiểm soát vốn)
nhằm hạn chế việc chuyển tiền cung cấp dịch vụ qua biên giới trong hoàn cảnh khủng
hoảng hoặc có nguy cơ khủng hoảng cán cân thanh toán, và các cuộc khủng hoảng
kinh tế khác hoặc để đảm bảo sự toàn vẹn và ổn định của hệ thống tài chính.
Thêm vào đó, Chương này bao gồm phụ lục dịch vụ chuyên môn nhằm khuyến khích hoạt
động hợp tác về công nhận việc cấp giấy phép hoặc các vấn đề chính sách khác và
phụ lục về dịch vụ chuyển phát nhanh.
11. Dịch vụ tài chính
Chương
Dịch vụ tài chính của TPP cung cấp các cơ hội mở cửa thị
trường đầu tư và qua biên giới quan trọng, trong khi đảm bảo rằng các Thành
viên TPP
duy trì quyền quản lý đầy đủ đối với các tổ chức và thị trường tài chính, thực
hiện các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp khủng hoảng. Chương này bao gồm
các nghĩa vụ cốt lõi tìm thấy trong các hiệp
định thương mại khác, bao gồm: Đối
xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc, các quy định cụ thể của Chương Đầu tư, bao gồm
Tiêu chuẩn đối xử tối thiểu (chẳng hạn như cho phép các khiếu nại bị từ chối tại
tòa hoặc không được cung cấp bảo vệ an ninh) tuân theo các tập quán luật thương mại quốc tế (ví dụ như các khiếu
nại về một số hành động của chính phủ không nằm trong nghĩa vụ pháp lý chung),
cũng như các khiếu nại vì các thiệt hại do nội chiến (ví dụ như thua lỗ gây ra
do xung đột vũ trang hoặc nội chiến); và mở cửa thị trường. Điều này cho phép
việc bán dịch vụ tài chính cụ thể qua biên giới sang một Thành viên TPP
từ một nhà cung cấp dịch vụ của một Thành viên TPP khác mà không yêu cầu
nhà cung cấp dịch vụ phải thành lập cơ sở hoạt động tại một nước khác để bán
các dịch vụ của mình – nhưng cho phép một Thành viên TPP yêu cầu đăng ký hoặc
được ủy quyền của nhà cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới ở nước TPP
khác nhằm giúp đảm bảo việc quản lý và giám sát thích hợp. Một nhà cung cấp dịch
vụ của một Thành viên TPP có thể cung cấp một dịch vụ tài
chính mới tại thị trường của nước TPP khác nếu các công ty trong nước
tại thị trường này được phép cung cấp dịch vụ đó. Các Thành viên TPP
có các ngoại lệ cụ thể của mình đối với một số các quy định trong hai phụ lục
đính kèm Hiệp định TPP:
(1) các biện pháp hiện hành trong đó một quốc gia chấp nhận nghĩa vụ không đưa
ra các biện pháp hạn chế hơn trong tương lai và ràng buộc bất kỳ sự tự do hóa
nào trong tương lai, và (2) các biện pháp và chính sách mà theo đó một quốc gia
duy trì quyền tự do làm theo ý mình một cách đầy đủ trong tương lai.
Các
Thành viên TPP cũng đưa ra các nguyên tắc công nhận chính thức tầm quan trọng
của quy trình hoạch định chính sách để giải quyết việc đưa ra các dịch vụ bảo
hiểm của các nhà cung cấp được cấp phép và các quy trình để đạt được mục tiêu
này. Thêm vào đó, Hiệp định TPP
bao gồm các cam kết cụ thể về quản lý danh mục đầu tư, dịch vụ thanh toán thẻ
điện tử và chuyển thông tin để xử lý dữ liệu. Hiệp định cũng bao gồm các quy định cụ thể về tranh chấp đầu tư liên
quan tới tiêu chuẩn đối xử tối thiểu trên cơ sở tập quán luật thương mại quốc tế, cũng như các quy định
liên quan tới các chuyên gia dịch vụ tài chính trong ban trọng tài và cơ chế
trình tự đặc biệt nhằm tạo điều kiện cho việc áp dụng ngoại lệ thận trọng và
các ngoại lệ khác của Chương. Cuối cùng, Hiệp
định bao gồm các ngoại lệ duy trì quyền linh hoạt lớn cho các nhà quản lý
tài chính của TPP thực hiện các biện pháp thúc đẩy sự ổn định tài chính và sự
toàn vẹn của hệ thống tài chính bao gồm các ngoại lệ thận trọng và ngoại lệ về
các biện pháp không phân biệt đối xử nhằm theo đuổi các chính sách tiền tệ hoặc
chính sách cụ thể khác.
12. Nhập cảnh tạm thời của khách kinh doanh
Chương
Nhập cảnh tạm thời của khách kinh doanh khuyến khích các cơ quan có thẩm quyền
của các thành viên TPP cung cấp thông tin về việc nộp đơn xin nhập cảnh, để đảm bảo
rằng phí nộp đơn là hợp lý, đưa ra quyết định đối với đơn xin nhập cảnh và
thông tin cho các ứng viên nộp đơn về quyết định là sớm nhất có thể. Các thành
viên TPP
đồng ý đảm bảo rằng các yêu cầu về nhập cảnh tạm thời là sẵn sàng công khai cho
công chúng, bao gồm công bố thông tin kịp thời và trực tuyến nếu có thể và cung
cấp tài liệu giải thích; và các Bên đồng ý tiếp tục hợp tác về các vấn đề nhập
cảnh tạm thời chẳng hạn như xử lý thị thực. Đa số các thành viên TPP
cũng đã cam kết về mở cửa thị trường khách kinh doanh cho nhau, theo như Phụ lục
cụ thể của từng nước đính kèm Hiệp định
TPP.
13. Viễn thông
Các
Thành viên TPP chia sẻ sự quan tâm trong việc đảm bảo mạng lưới viễn thông
hiệu quả và đáng tin cậy tại mỗi quốc gia. Các mạng lưới này là cần thiết đối với
các công ty lớn và nhỏ như là một cổng ra vào đối với các dịch vụ Internet cũng
như các sản phẩm như điện thoại di động thông minh và các thiết bị máy tính bảng
và các ứng dụng và nội dung tích hợp của các thiết bị này. Lần đầu tiên trong một
hiệp định thương mại khu vực, các quy định tiếp cận mạng lưới hỗ trợ cạnh
tranh được mở rộng đối với các nhà cung cấp điện thoại. Các thành viên TPP
cam kết đảm bảo rằng các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông trong lãnh thổ của
mình cung cấp sự kết nối nội địa, các dịch vụ cho thuê thiết bị, địa điểm dùng
chung, và tiếp cận các cổng hoặc thiết bị khác theo các điều khoản và điều kiện
hợp lý và theo một thời gian kịp thời. Các Thành viên cũng cam kết, nếu có yêu
cầu cấp giấy phép, đảm bảo minh bạch hóa về bất kỳ quy định nào trong lĩnh vực
này và quy định đó không giới hạn các công nghệ cụ thể như cách thức nhằm tạo
điều kiện cho công nghệ trong nước. Nhằm tránh các thất bại thị trường hoặc các
hành vi độc quyền, các Thành viên TPP đồng ý dựa trên áp lực thị trường
và các đàm phán thương mại trong lĩnh
vực viễn thông. Các Thành viên cũng đồng ý thúc đẩy cạnh tranh nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho việc sử dụng các phương tiện khác nhau trong chuyển vùng di động.
Các Thành viên TPP đồng ý rằng nếu một Thành viên lựa chọn quản lý mức phí dịch
vụ chuyển vùng di động quốc tế bán buôn thì Thành viên đó phải cho phép các nhà
hoạt động từ các Thành viên TPP không quản lý các dịch vụ điện
thoại được hưởng lợi ích với mức phí thấp hơn.
14.Thương mại
điện tử
Trong
Chương Thương mại điện tử, các Thành
viên TPP
cam kết đảm bảo rằng các công ty và người tiêu dùng có thể tiếp cận và chuyển dữ
liệu, với các mục tiêu chính sách công hợp pháp, chẳng hạn như quyền riêng tư,
nhằm đảm bảo tự do lưu chuyển thông tin và dữ liệu toàn cầu, dẫn dắt nền kinh tế
Internet và kỹ thuật số. 12 Thành viên TPP cũng đồng ý không yêu cầu các
công ty TPP thiết lập các trung tâm dữ liệu để lưu trữ dữ liệu như là một
điều kiện để được hoạt động tại một thị trường TPP và thêm vào đó, mã
nguồn của phần mềm không được yêu cầu lưu chuyển hoặc tiếp cận. Chương này
nghiêm cấm việc áp dụng thuế quan đối với các sản phẩm kỹ thuật số và ngăn chặn
các thành viên TPP tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất hoặc nhà cung
cấp dịch vụ trong nước đối với các sản phẩm kỹ thuật số này thông qua các biện
pháp như thuế phân biệt đối xử hoặc sự ngăn cấm một cách rõ ràng. Để bảo vệ người
tiêu dùng, các Thành viên TPP đồng ý thông qua và duy trì các
luật bảo vệ người tiêu dùng liên quan đến các hoạt động thương mại gian lận và lừa bịp trực tuyến và đảm bảo rằng sự riêng
tư và sự bảo vệ người tiêu dùng khác sẽ có hiệu lực tại các thị trường TPP.
Các Thành viên cũng được yêu cầu phải có các biện pháp để chấm dứt các tin nhắn
thương mại điện tử được gửi đi không
do yêu cầu. Để tạo điều kiện thuận lợi cho thương
mại điện tử, chương này bao gồm các quy định khuyến khích các nước TPP
thúc đẩy thương mại không giấy tờ giữa
các doanh nghiệp và chính phủ, chẳng hạn như các mẫu khai thuế quan được đưa ra
dưới dạng điện tử, cũng như cung cấp chứng minh xác thực và chữ ký điện tử cho
các giao dịch thương mại. 12 Thành
viên TPP
đồng ý hợp tác để giúp đỡ các doanh nghiệp nhỏ và vừa tận dụng lợi thế của thương mại điện tử và Chương này khuyến
khích hợp tác chính sách liên quan tới việc bảo vệ thông tin cá nhân, bảo vệ
người tiêu dùng trực tuyến, sự đe dọa của tội phạm máy tính và khả năng của tội
phạm máy tính.
15. Mua sắm chính phủ
Các
Thành viên TPP cùng quan tâm tới mở cửa thị trường mua sắm chỉnh phủ rộng
lớn của nhau thông qua các quy tắc công bằng, minh bạch, có thể dự đoán, và
không phân biệt đối xử. Trong chương Mua sắm chính phủ, các Thành viên TPP
cam kết với những nguyên tắc chính về đối xử quốc gia và không phân biệt đối xử.
Các Thành viên cũng đồng ý công bố các thông tin liên quan một cách kịp thời, để
các nhà cung cấp có đủ thời gian nhận được hồ sơ dự thầu và nộp bản chào thầu,
để đối xử với các nhà thầu một cách công bằng, bình đẳng, và để duy trì tính bảo
mật cho các nhà thầu. Thêm vào đó, các Thành viên đồng ý sẽ sử dụng các mô tả kỹ
thuật công bằng và khách quan, sẽ chỉ duyệt hợp đồng dựa trên những tiêu chí
đánh giá đã mô tả trong các thông báo và hồ sơ dự thầu, sẽ xây dựng các quy
trình hợp lý để chất vấn hoặc xem xét các khiếu nại đối với một phê duyệt nào
đó. Mỗi Thành viên sẽ đưa ra một danh sách chọn cho các đơn vị mà Thành viên đó
sẽ xây dựng, được liệt kê tại phụ lục gắn liền với Hiệp định TPP.
16. Chính sách cạnh tranh
Các
Thành viên TPP cùng quan tâm bảo đảm một khung khổ cạnh tranh bình đẳng
trong khu vực thông qua những quy định yêu cầu các Thành viên TPP
duy trì hệ thống luật pháp cấm những hành vi kinh doanh phi cạnh tranh, cũng
như những hoạt động thương mại gian lận
và lừa đảo, gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Các Thành viên TPP
đồng ý sẽ thông qua hoặc duy trì hệ thống luật cạnh tranh quốc gia cấm hành vi
kinh doanh phi cạnh tranh và sẽ làm việc để áp dụng những luật lệ này vào tất cả
các hoạt động kinh doanh trong phạm vi lãnh thổ của mình. Để đảm bảo những luật
lệ này được thực thi một cách hiệu quả, các Thành viên TPP đồng ý sẽ thành lập
hoặc duy trì các cơ quan chức năng chịu trách nhiệm về việc thực thi luật cạnh
tranh quốc gia, và thông qua hoặc duy trì luật lệ hoặc quy định cấm các hoạt động
thương mại gian lận và lừa đảo gây
thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Các Thành viên
cũng đồng ý sẽ hợp tác, trong trường hợp có thể, về những vấn đề các bên cùng
quan tâm liên quan đến các hoạt động cạnh tranh. 12 Thành viên đồng ý với những
nghĩa vụ liên quan đến thủ tục hợp lý và tính công bằng trong quy trình, cũng
như quyền cá nhân đối với những hành động gây ra tổn hại do vi phạm luật cạnh
tranh của một Thành viên. Thêm vào đó, các Thành viên TPP đồng ý hợp tác trong
phạm vi chính sách cạnh tranh và thực thi luật cạnh tranh, bao gồm thông qua
thông báo, tham vấn hoặc trao đổi thông tin. Chương này không thuộc đối tượng
điều chỉnh của các quy định về giải quyết tranh chấp của Hiệp định TPP, nhưng các Thành viên TPP
có thể tham vấn để xử lý những quan ngại liên quan đến chương này.
17. Doanh nghiệp nhà nước (SOEs)
Tất
cả các Thành viên TPP đều có SOEs, thường đóng vai trò cung cấp dịch vụ công và
các hoạt động khác, nhưng các Thành viên TPP đều nhận thấy lợi ích của việc
thống nhất một khung khổ quy định về cạnh tranh liên quan đến các SOEs. Chương
SOEs điều chỉnh những SOEs chủ yếu tham gia vào các hoạt động thương mại. Các Thành viên nhất trí bảo
đảm rằng các SOEs của mình sẽ tiến hành các hoạt động thương mại trên cơ sở tính toán thương
mại, trừ trường hợp không phù hợp với nhiệm vụ mà các SOEs đó đang phải thực
hiện để cung cấp các dịch vụ công. Các Thành viên cũng đồng ý bảo đảm rằng các
SOEs hoặc đơn vị độc quyền sẵn có không có những hoạt động phân biệt đối xử đối
với các doanh nghiệp, hàng hóa, dịch vụ của các Thành viên khác. Các Thành viên
đồng ý trao cho tòa án quyền tài phán đối với các hoạt động thương mại của các SOEs nước ngoài và bảo
đảm rằng các cơ quan hành chính quản lý cả các SOEs và doanh nghiệp tư nhân
cũng làm như vậy một cách công bằng. Các Thành viên TPP đồng ý sẽ không tạo
ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với lợi ích của các Thành viên TPP
khác khi cung cấp hỗ trợ phi thương mại
cho các SOEs, hay làm tổn hại đến ngành trong nước của Thành viên khác thông
qua việc cung cấp các hỗ trợ phi thương mại
cho SOEs sản xuất và bán hàng hóa trên lãnh thổ của SOE khác đó. Các Thành viên
TPP
đồng ý chia sẻ danh sách các SOEs với các Thành viên khác và khi được yêu cầu sẽ
cung cấp các thông tin bổ sung về mức độ sở hữu hoặc kiểm soát của chính phủ và
những hỗ trợ phi thương mại cung cấp
cho các SOEs. Chương này cũng tạo ra các trường hợp ngoại lệ cho các SOEs không
có ảnh hưởng trên thị trường TPP, cũng như những ngoại lệ cụ thể
theo từng nước, được quy định trong các phụ lục, gắn liền với Hiệp định TPP.
18. Sở hữu trí tuệ
Chương
Sở hữu trí tuệ (IP) trong TPP điều chỉnh các lĩnh vực về bằng
sáng chế, nhãn hiệu, bản quyền, bí mật thương
mại, các hình thức khác của quyền sở hữu trí tuệ, và việc thực thi các quyền
về sở hữu trí tuệ, cũng như các lĩnh vực mà các Thành viên đồng ý hợp tác.
Chương
này xây dựng tiêu chuẩn cho bằng sáng chế, lấy từ Hiệp định TRIPS của WTO và những thông lệ quốc tế tốt nhất. Về nhãn
hiệu, chương này làm rõ và củng cố việc bảo vệ tên nhãn hiệu và những dấu hiệu
khác mà các doanh nghiệp và cá nhân sử dụng để phân biệt sản phẩm của họ trên
thị trường. Chương này cũng yêu cầu các Thành viên đưa vào cả tính minh bạch và
quy trình bảo vệ phù hợp liên quan đến việc bảo vệ những chỉ dẫn địa lý mới,
bao gồm cả những chỉ dẫn địa lý đã được công nhận hoặc được bảo vệ ở những hiệp định quốc tế khác. Việc bảo vệ này
bao gồm cả việc phân định rõ mối quan hệ giữa nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý, cũng
như việc bảo vệ việc sử dụng những thuật ngữ thường dùng.
Chương
IP sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm, đăng
ký và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở các thị trường mới, và đây là điều rất cấn
thiết cho các doanh nghiệp nhỏ.
Bên
cạnh đó, chương này cũng bao gồm những điều khoản thích hợp liên quan đến dược
phẩm tạo điều kiện cho cả việc phát triển các loại thuốc cứu sinh mới cũng như
việc phổ biến các loại thuốc thông dụng, có tính đến thời gian từng Thành viên
cần để đáp ứng được các tiêu chuẩn này. Chương này bao gồm những cam kết liên
quan đến việc bảo vệ mật kết quả thử nghiệm và các dữ liệu khác để có được quyền
marketing dược phẩm và hóa phẩm nông nghiệp. Chương này cũng tái khẳng định cam
kết của các Thành viên với Tuyên bố 2001 của WTO về Hiệp định TRIPS và Sức khỏe cộng đồng và cụ thể là xác nhận rằng
các Thành viên không bị hạn chế áp dụng các biện pháp bảo vệ sức khỏe cộng đồng,
bao gổm cả trong trường hợp có những đại dịch như HIV/AIDS.
Về
bản quyền, chương IP xây dựng những cam kết liên quan đến quyền của người sáng
chế, và tạo ra bảo hộ rõ rệt đối với các tác phẩm như bài hát, phim, sách, và
phần mềm, và bao gồm những điều khoản cân đối và hiệu quả về các biện pháp bảo
vệ công nghệ và thông tin quản lý bản quyền. Bên cạnh các cam kết này, chương
này cũng bao gồm một nghĩa vụ - lần đầu tiên xuất hiện trong bất kỳ hiệp định thương mại nào – để các Thành viên có thể liên tục cố gắng đạt được
sự cân bằng trong hệ thống bản quyền thông qua, trong số những nội dung khác,
những ngoại lệ và hạn chế - bao gồm cả những nội dung trong môi trường số - để
phục vụ những mục đích chính đáng, như phê bình, góp ý, báo cáo tin tức, dạy học,
học bổng, và nghiên cứu. Chương này yêu cầu các Thành viên phải thông qua hoặc
duy trì một khung khổ về vùng an toàn cho các nhà cung cấp dịch vụ Internet
(ISP). Các nghĩa vụ này không cho phép các Thành viên tạo ra các vùng an toàn
ngẫu nhiên để giám sát hệ thống của các IPS tìm kiếm nội dung vi phạm.
Chương
này yêu cầu các Thành viên TPP cung cấp các công cụ hợp pháp để
ngăn ngừa việc sử dụng sai các bí mật thương
mại, và xây dựng các quy trình thủ tục và xử phạt hình sự đối với tội phạm
trộm cắp bí mật thương mại, bao gồm cả
trộm cắp qua mạng.
Cuối
cùng, các Thành viên TPP đồng ý cung cấp các hệ thống chế
tài mạnh, bao gồm cả những quy trình thủ tục dân sự, các biện pháp tạm thời,
các biện phảp quản lý biên giới, và chế tài hình sự đối với tội giả mạo nhãn hiệu
và vi phạm bản quyền.
19. Lao động
Tất
cả các Thành viên TPP đều là thành viên của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và thừa
nhận mối liên hệ giữa quyền của người lao động với thương mại. Trong TPP, các Thành viên đồng ý thông qua
và duy trì trong luật và thông lệ của mình các quyền cơ bản của người lao động
như được thừa nhận trong Tuyên bố 1998 của ILO, đó là quyền tự do liên kết và
quyền thương lượng tập thể; xóa bỏ lao động cưỡng bức; xóa bỏ lao động trẻ em
và cấm các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; và loại bỏ sự phân biệt đối xử
về việc làm và nghề nghiệp. Các Thành viên cũng đồng ý có luật quy định mức
lương tối thiểu, số giờ làm việc, an toàn và sức khỏe nghề nghiệp. Những cam kết
này áp dụng cả với các khu chế xuất. 12 Thành viên TPP đồng ý không miễn trừ
hoặc giảm hiệu lực của luật lệ quy định việc thực thi các quyền cơ bản của người
lao động để thu hút thương mại hoặc đầu
tư, và sẽ thực thi hiệu quả luật liên quan đến lao động một cách bền vững hoặc
đều đặn có thể có ảnh hưởng tới thương mại
hoặc đầu tư giữa các Thành viên TPP. Bên cạnh các cam kết của các
Thành viên xóa bỏ lao động cưỡng bức trong nước mình, chương Lao động bao gồm cả
những cam kết không khuyến khích việc nhập khẩu hàng hóa được sản xuất bằng lao
động cưỡng bức hoặc lao động trẻ em, hoặc sử dụng đầu vào được sản xuất ra bằng
lao động cưỡng bức, bất kể nước xuất xứ có nằm trong TPP hay không. Mỗi Thành
viên TPP
đều cam kết bảo đảm khả năng tiếp cận với hệ thống thủ tục hành chính và tư
pháp công bằng, không thiên vị và minh bạch và sẽ cung cấp các biện pháp khắc
phục hiệu quả những vi phạm luật lao động của mình. Các Thành viên cũng đồng ý
cho phép sự tham gia của công chúng vào việc thực thi chương Lao động, bao gồm
cả việc xây dựng cơ chế tiếp nhận ý kiến đóng góp của công chúng và đáp ứng các
yêu cầu về thông tin.
Các
cam kết tại chương này là đối tượng điều chỉnh của các thủ tục giải quyết khiếu
nại được quy định tại chương Giải quyết tranh chấp. Để thúc đẩy việc giải quyết
nhanh các vấn đề về lao động giữa các thành viên TPP, chương Lao động cũng
xây dựng cơ chế đối thoại mà các Thành viên có thể lựa chọn áp dụng để cố gắng giải
quyết bất cứ vấn đề nào về lao động trong chương này giữa các Thành viên. Cơ chế
đối thoại này cho phép việc xem xét nhanh các vấn đề và cho phép các Thành viên
cùng nhất trí với chương trình hành động để xử lý vấn đề. Chương Lao động tạo
ra một cơ chế hợp tác về các vấn đề về lao động, bao gồm cả các cơ hội để các
bên đóng góp xác định phạm vi hợp tác và tham gia, nếu phù hợp và các Thành
viên cùng tham gia, trong các hoạt động hợp tác.
20. Môi trường
Với
tư cách là ngôi nhà đối với của một phần quan trọng của thế giới hoang dã, các
giống cây trồng và sinh vật biển, các Thành viên TPP chia sẻ một cam kết mạnh
mẽ nhằm bảo vệ và bảo tồn môi trường, bao gồm cả việc các thành viên làm việc với
nhau nhằm giải quyết các thách thức về môi trường, ví dụ như ô nhiễm môi trường,
buôn bán động vật hoang dã, khai thác trái phép, đánh bắt trái phép và bảo vệ
môi trường biển. Trong khuôn khổ của Hiệp
định TPP, 12 Thành viên nhất trí đối với thực thi có hiệu quả pháp
luật về môi trường và không làm suy giảm hệ thống pháp luật về môi trường nhằm
mục đích khuyến khích thương mại và đầu
tư. Các Bên cũng nhất trí thực thi các nghĩa vụ theo Công ước về Thương mại quốc tế đối với các loài động
thực vật nguy cấp (CITES) và thực hiện các biện pháp nhằm đấu tranh và tăng cường
hợp tác để ngăn chặn thương mại về động
thực vật hoang dã được tiến hành một cách bất hợp pháp. Ngoài ra, các Thành
viên cũng đồng ý thúc đẩy quản lý phát triển rừng bền vững, bảo vệ và bảo tồn
các loài động vật và giống cây hoang dã được xác định là nguy cấp trong lãnh thổ
của nước mình, trong đó bao gồm cả các hành động mà các Bên tiến hành nhằm bảo
tồn toàn vẹn sinh thái của các vùng tự nhiên được bảo vệ đặc biệt, ví dụ như
khu vực đầm lầy. Trong nỗ lực bảo vệ vùng đại dương chung, các Thành viên TPP
nhất trí đối với quản lý bền vững nghề cá, thúc đẩy việc bảo tồn các loài sinh
vật biển quan trọng, ví dụ như cá mập, đấu tranh chống đánh bắt trái phép, cũng
như nghiêm cấm một số hình thức trợ cấp nghề cá có tác động tiêu cực nhất dẫn đến
tình trạng khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên cá. Các hình thức trợ cấp này ảnh
hưởng tiêu cực đến dự trữ cá và tiếp tay cho các hoạt động đánh bắt trái phép,
không được thống kê và không được pháp luật quy định. Các Bên nhất trí tăng cường
tính minh bạch liên quan đến các chương trình trợ cấp và nỗ lực hết sức ngăn chặn
việc đưa ra các hình thức trợ cấp mới dẫn đến đánh bắt cạn kiệt và vượt quá trữ
lượng các nguồn tài nguyên.
Các
Thành viên TPP cũng nhất trí bảo vệ môi trường biển khỏi ô nhiễm đánh bắt
và bảo vệ tầng ô zôn khỏi các chất gây phá hủy. Các Thành viên tái khẳng định
cam kết của họ trong việc thực thi Hiệp định
nhiều bên về môi trường (MEAs) mà họ là thành viên. Các Thành viên cam kết minh
bạch trong các vấn đề khi đưa ra, thực thi và thúc đẩy các quyết định về môi
trường. Ngoài ra, các Thành viên nhất trí đối với việc tạo điều kiện cho cộng đồng
đóng góp đối với việc thực thi Chương Môi trường thông qua các phiên xem xét và
đánh giá việc thành lập Ủy ban về Môi trường nhằm giám sát việc thực thi chương
này. Chương này cũng bao gồm cam kết về minh bạch hóa trong việc thực thi và
tuân thủ và các đối tượng của quy trình giải quyết tranh chấp được quy định
trong Chương Giải quyết tranh chấp. Các Thành viên còn nhất trí khuyến khích
các sáng kiến tự nguyện về môi trường, ví dụ như các chương trình hợp tác về
trách nhiệm xã hội. Cuối cùng, các Bên cam kết hợp tác và giải quyết các vấn đề
thuộc mối quan tâm chung, trong đó bao gồm các khu vực bảo tồn và sử dụng bền vững
đa dạng sinh học, và thời gian chuyển đổi sang các nền kinh tế có mức khí thải
thấp và phát triển bền vững.
21. Hợp tác và Nâng cao năng lực
12
nền kinh tế thành viên TPP rất đa dạng về trình độ phát triển.
Mọi Thành viên đều nhận thức rằng các thành viên kém phát triển hơn của Hiệp định TPP có thể phải đối mặt với
các thách thức nhất định khi thực thi hiệp
định, tận dụng tối đa lợi thế về cơ hội do hiệp định này tạo ra và đảm bảo sự tham gia đầy đủ của các doanh
nghiệp nhỏ hơn, cộng đồng vùng nông thôn, phụ nữ và các nhóm thu nhập xã hội thấp
hơn. Nhằm giải quyết các thách thức trên, Chương Hợp tác và Nâng cao năng lực
thiết lập một Ủy ban về Hợp tác và Nâng cao năng lực nhằm phát hiện và rà soát
các khu vực có tiềm năng hợp tác và xây dựng năng lực trên cơ sở tự nguyện và sự
sẵn có của các nguồn lực. Ủy ban này sẽ thúc đẩy trao đổi thông tin nhằm hỗ trợ
các yêu cầu về hợp tác và nâng cao năng lực.
22. Cạnh tranh và Tạo thuận lợi kinh doanh
Chương
Cạnh tranh và Tạo thuận lợi kinh doanh nhằm mục tiêu giúp cho TPP
đạt được các tiềm năng của khu vực nhằm phát triển sức cạnh tranh của các thành
viên tham gia hiệp định và của cả khu
vực nói chung. Chương này tạo nên các cơ chế chính thức nhằm rà soát tác động của
TPP
lên sức cạnh tranh của các Thành viên thông qua các cuộc đối thoại giữa các
chính phủ và giữa chính phủ với doanh nghiệp và cộng đồng, tập trung tham gia
sâu vào chuỗi cung ứng khu vực nhằm đánh giá sự phát triển, tận dụng lợi thế của
các cơ hội mới, và giải quyết bất cứ các thách thức có thể nổi lên khi Hiệp định TPP có hiệu lực. Trong số
các giải pháp này có việc thành lập Ủy ban về Cạnh tranh và Tạo thuận lợi kinh
doanh. Ủy ban này sẽ nhóm họp thường xuyên nhằm rà soát tác động của Hiệp định TPP lên sức cạnh tranh của
khu vực và quốc gia, và lên hệ thống kinh tế khu vực. Ủy ban sẽ xem xét các
khuyến nghị và đề xuất từ các đối tượng liên quan đối với các cách thức mà Hiệp định TPP có thể thúc đẩy hơn nữa
sự cạnh tranh, bao gồm cả việc tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ vào chuỗi cung ứng khu vực. Chương này cũng thiết lập một khung cơ bản
dành cho Ủy ban để đánh giá hoạt động của chuỗi cung ứng theo Hiệp định, trong đó bao gồm các cách thức
để thúc đẩy sự tham gia của SME vào chuỗi cung ứng và rà soát đóng góp của các
đố tượng liên quan và các chuyên gia.
23. Phát triển
Các
thành viên TPP tìm kiếm giải pháp nhằm đảm bảo Hiệp định TPP sẽ là một hình mẫu của sự hội nhập
thương mại và kinh tế tiêu chuẩn cao,
và đặc biệt nhằm đảm bảo mọi Thành viên TPP có thể thu được các lợi ích từ hiệp định, có đầy đủ năng lực để thực
thi các cam kết của mình và nổi lên như các nền kinh tế thịnh vượng hơn và thị
trường mạnh mẽ hơn cho tất cả các thành viên. Chương Phát triển gồm có 3 lĩnh vực
cơ bản được coi như dành cho các chương trình hợp tác khi Hiệp định có hiệu lực. Các lĩnh vực này bao gồm: (1) tăng trưởng
kinh tế toàn diện và cơ bản bao gồm có phát triển bền vững, giảm đói nghèo và
thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ; (2) thúc đẩy phụ nữ và kinh tế, trong đó có việc
hỗ trợ phụ nữ xây dựng năng lực và các kỹ năng, tăng cường sự tiếp cận của phụ
nữ với thị trường, đạt được kỹ năng về công nghệ thông tin và tài chính, thiết
lập mạng lưới lãnh đạo nữ giới, và chỉ ra các thực tiễn tốt nhất trong ứng dụng
linh hoạt trong môi trường công việc; và (3) giáo dục, khoa học và công nghệ,
nghiên cứu và sáng tạo. Chương này cũng thiết lập Ủy ban TPP về phát triển - là cơ
quan sẽ nhóm họp thường xuyên để thúc đẩy các chương trình hợp tác tự nguyện
trong các lĩnh vực này và các cơ hội mới khi nó phát sinh.
24. Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các
nước TPP
chia sẻ mối quan tâm đến việc thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp nhỏ và
vừa vào thương mại và bảo đảm rằng
các doanh nghiệp nhỏ và vừa chia sẻ các lợi ích của Hiệp định TPP. Bên cạnh những cam kết tại các
chương khác của Hiệp định về tiếp cận
thị trường, giảm các công việc giấy tờ, tiếp cận internet, thuận lợi hóa thương mại, chuyển phát nhanh và các nội
dung khác, Chương về Doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm các cam kết của mỗi Bên về
thiết lập một trang web thân thiện với người sử dụng dành cho đối tượng sử dụng
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ để dễ dàng tiếp cận các thông tin về Hiệp định TPP và những cách thức mà
các doanh nghiệp nhỏ có thể tận dụng Hiệp
định này, bao gồm cả việc diễn giải các điều khoản của Hiệp định TPP liên quan tới doanh nghiệp vừa
và nhỏ; các quy định và thủ tục liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ; các quy định
về đầu tư nước ngoài; các thủ tục về đăng ký kinh doanh; các quy định về lao động
và các thông tin về thuế. Ngoài ra, Chương này quy định việc thành lập Ủy ban
Doanh nghiệp vừa và nhỏ được tiến hành họp định kỳ để rà soát mức độ hỗ trợ của
Hiệp định TPP cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, cân nhắc các cách thức để nâng cao hơn nữa những lợi ích của Hiệp định và giám sát các hoạt động hợp
tác hoặc nâng cao năng lực để hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua tư vấn
xuất khẩu, hỗ trợ, đào tạo cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; chia sẻ thông tin; cấp
vốn thương mại và các hoạt động khác.
25. Gắn kết môi trường chính sách
Chương Gắn kết môi trường chính sách của TPP
sẽ giúp mở ra một môi trường thông thoáng, bình đẳng và dễ dự đoán dành cho các
doanh nghiệp hoạt động trên các thị trường TPP bằng cách khuyến khích minh bạch
hóa, công bằng và hợp tác giữa các chính phủ để đạt được một phương thức tiếp cận
chính sách một cách gắn kết. Chương này nhằm mục đích tạo thuận lợi về gắn kết
môi trường chính sách tại mỗi quốc gia TPP bằng việc thúc đẩy các cơ chế
cho quá trình tham vấn và hợp tác giữa các cơ quan nội bộ một cách hiệu quả.
Chương này cũng khuyến khích việc chấp nhận rộng rãi các chính sách tốt, ví dụ
như các đánh giá tác động của các biện pháp chính sách được đề xuất, trao đổi
thông tin của các nhóm nền tảng cho quá trình chọn lựa các chính sách thay thế
và bản chất của chính sách được giới thiệu. Chương này còn bao gồm các điều khoản
nhằm giúp đảm bảo các chính sách rõ ràng, chính xác về mặt văn bản, theo đó cộng
đồng có thể tiếp cận thông tin đối với các biện pháp chính sách mới, nếu có thể
thì theo hình thức trực tuyến, và các biện pháp chính sách hiện hành đã được rà
soát định kỳ nhằm quyết định xem các biện pháp đó đang còn là các công cụ hiệu
quả nhất để đạt được các mục tiêu đề ra. Ngoài ra, chương cũng khuyến khích các
chính phủ TPP cung cấp các thông báo thường niên về tất cả các biện pháp
chính sách mà chính phủ đó định thực hiện. Cuối cùng, chương cũng thiết lập một
Ủy ban mà theo đó sẽ cung cấp cho các quốc gia TPP, doanh nghiệp và cộng
đồng tiếp tục có các cơ hội báo cáo về quá trình thực thi, chia sẻ kinh nghiệm
về các thực tiễn tốt nhất, và xem xét các khu vực có tiềm năng hợp tác. Chương
này, dưới bất kỳ hình thức nào, không ảnh hưởng đến quyền của các Thành viên
trong việc đưa ra các chính sách về sức khỏe cộng đồng, an toàn, an ninh và các
lý do vì lợi ích công cộng khác.
26. Minh bạch hóa và Chống tham nhũng
Chương
Minh bạch hóa và chống tham nhũng có mục đích thúc đẩy các mục tiêu, được chia
sẻ bởi toàn bộ các Bên tham gia Hiệp định,
tăng cường quản trị tốt và xử lý những ảnh hưởng xói mòn của việc hối lộ và
tham nhũng lên nền kinh tế. Theo Chương này, các Bên tham gia TPP
phải đảm bảo rằng, trong chừng mực có thể, luật pháp, quy định và các quy chế
hành chính có liên quan tới bất kỳ vấn đề nào được quy định bởi Hiệp định TPP sẽ được công bố công
khai và tiếp nhận các nhận xét. Các Bên sẽ đảm bảo quyền lợi theo quy trình thủ
tục đối với tố tụng hành chính cho các bên liên quan đến TPP, bao gồm việc nhanh
chóng xem xét thông qua các tòa án hoặc thủ tục tố tụng hành chính hoặc quan
tòa công bằng. Các Bên cũng đồng ý áp dụng hoặc duy trì luật hình sự hóa đối với
việc cung cấp những lợi ích không chính đáng của một công chức hay những hành động
hối lộ khác có ảnh hưởng đến đầu tư và thương
mại quốc tế. Các Bên cũng cam kết sẽ áp dụng hiệu quả các quy định và luật
pháp về chống hối lộ. Hơn nữa, các bên đồng ý nỗ lực duy trì hoặc áp dụng các tiêu
chuẩn, quy tắc ứng xử của các công chức cũng như các biện pháp nhằm xác định và
quản lý xung đột lợi ích, qua đó tăng cường đào tạo công chức, tránh việc xử dụng
quà tặng, khuyến khích việc thông báo về các hành động hối lộ và có hình thức kỷ
luật hoặc các biện pháp khác đối với các công chức có hành động hối lộ. Trong một
Phụ lục của Chương này, các Bên TPP cũng đồng ý với các điều khoản
thúc đẩy tính minh bạch và quy trình liên quan đến danh sách và các chi phí cho
các sản phẩm dược phẩm hoặc các thiết bị y tế. Các cam kết trong phụ lục này
không thuộc đối tượng của thủ tục giải quyết tranh chấp.
27. Các điều khoản về hành chính và thể chế
Chương
về Các điều khoản hành chính và thể chế của TPP xây dựng một khung thể
chế thông qua đó các Bên có thể đánh giá và hướng dẫn việc thực hiện hoặc hoạt
động của Hiệp định, đặc biệt bằng việc
thành lập Ủy ban TPP, bao gồm các Bộ trưởng hoặc các quan chức cấp cao, giám sát
hoạt động và quá trình thực thi Hiệp định
và định hướng phát triển tương lai. Ủy ban này sẽ rà soát mối quan hệ kinh tế
và đối tác giữa các Bên theo định kỳ để đảm bảo duy trì liên kết chặt chẽ với
những thách thức mà cách bên gặp phải. Mọi sửa đổi cần có sự đồng thuận và kết
luật thông qua các thủ tục pháp lý của các Bên. Chương này cũng cung cấp thông
tin về đầu mối liên lạc của các Bên để tạo thuận lợi cho trao đổi và tạo ra một
cơ chế để những Bên có thời hạn chuyển đổi cụ thể đối với một nghĩa vụ nào đó
có thể báo cáo về tiến trình thực hiện và định hướng nhằm đảm bảo tính minh bạch
trong việc thực hiện các nghĩa vụ.
28. Giải quyết tranh chấp
Chương
về Giải quyết tranh chấp có mục tiêu nhanh chóng giúp đỡ các Bên giải quyết những
vướng mắc trong quá trình thực hiện Hiệp
định TPP. Các Bên TPP có mục tiêu là giải quyết các
tranh chấp thông qua tham vấn và khi cần thiết có thể thông qua các Ban hội thẩm
công bằng, không thiên vị. Cơ chế giải quyết tranh chấp đề ra trong Chương này
áp dụng cho toàn bộ Hiệp định TPP,
trừ một số ít trường hợp đặc biệt. Công chúng có thể theo dõi tiến trình tố tụng
từ thời điểm các đệ trình được công bố, công chúng cũng có thể theo dõi phiên
điều trần và báo cáo cuối cùng của các Ban hôi thẩm cũng sẽ được công bố. Các
Ban hội thẩm cũng sẽ cân nhắc các yêu cung cấp quan điểm tới vụ tranh chấp từ của
các đơn vị phi chính phủ hoạt động trong lãnh thổ của bất kỳ Bên tranh chấp
nào. Các Bên TPP sẽ nỗ lực hết sức nhằm giải quyết tranh chấp thông qua hợp
tác và tham vấn và được khuyến khích sử dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp
khác nếu phù hợp. Trong trường hợp tham vấn thất bại, các Bên có thể yêu cầu
thành lập một Ban hội thẩm, được thành lập trong vòng 60 ngày kể từ khi có yêu
cầu tham vấn hoặc 30 ngày đối với hàng hóa mau hỏng. Ban Hội thẩm sẽ bao gồm 3
chuyên gia độc lập về thương mại quốc
tế và có liên quan tới lĩnh vực tranh chấp cùng với một quy trình thủ tục để chắc
chắn rằng Ban Hội thẩm sẽ được thành lập trong một khoảng thời gian nhất định
ngay cả khi các Bên không thống nhất được về thành phần của Ban. Ban Hội thẩm sẽ
tuân theo một quy tắc ứng xử chung nhằm đảm bảo tính thống nhất của cơ chế giải
quyết tranh chấp. Ban Hội thẩm sẽ có một báo cáo ban đầu trong vòng 150 ngày kể
tư khi thành viên cuối cùng của Ban được chỉ định hoặc 120 ngày trong trường hợp
khẩn cấp, như là trường hợp liên quan tới các hàng hóa dễ hỏng. Báo cáo ban đầu
này sẽ là báo cáo mật và các Bên có thể nhận xét bổ sung. Báo cáo cuối cùng sẽ
được hoàn thành trong vòng 30 ngày kể từ ngày có báo cáo ban đầu và phải được
công báo trong vòng 15 ngày nhưng các thông tin mật sẽ được giữ kín. Để đảm bảo
các Bên sẽ tuân thủ, Chương giải quyết tranh chấp cho phép sử dụng trả đũa thương mại (ví dụ như ngừng không cho hưởng
lợi ích), nếu một Bên không tuân thủ với nghĩa vụ của mình. Trước khi sử dụng biện pháp trả đũa thương mại, Bên không tuân thủ có thể thảo
luận hoặc yêu cầu một khoảng thời gian hợp lý để khắc phục các vi phạm của
mình.
29. Ngoại lệ
Chương
về Ngoại lệ mang lại các linh hoạt cho các Bên trong Hiệp định TPP để đảm bảo đầy đủ quyền lợi
chung, bao gồm lợi ích an ninh cơ bản và các phúc lợi công. Chương này kết hợp
các ngoại lệ chung trong Điều XX của Hiệp
định chung về Thương mại và thuế
quan 1994 cho các điều khoản liên quan tới hàng hóa thương mại, theo đó Hiệp định
TPP
sẽ không ngăn cản các Bên áp dụng hoặc thực thi các biện pháp cần thiết để bảo
vệ đạo đức công cộng, bảo về đời sống hoặc sức khỏe con người, động hoặc thực vật,
bảo vệ sở hữu trí tuệ, thực thi các biện pháp liên quan tới các sản phẩm của
lao động tù nhân, để bảo vệ tài sản quốc gia giá trị nghệ thuật, lịch sử, hoặc
khảo cổ và bảo tồn các nguồn tài nguyên bị cạn kiệt. Chương này cũng bao gồm
các ngoại lệ chung tương tự như trong Điều XIV của Hiệp định chung về Thương mại
dịch vụ liên quan tới các điều khoản liên quan tới thương mại dịch vụ. Chương này bao gồm cả ngoại lệ về tự đánh giá
áp dụng chung cho toàn bộ Hiệp định TPP,
theo đó một Bên có thể sử dụng các biện pháp mà họ thấy cần thiết để bảo vệ lợi
ích an ninh cơ bản. Chương này cũng xác định các hoàn cảnh cụ thể và điều kiện
mà theo đó một Bên có thể áp dụng các biện pháp tự vệ tạm thời (ví dụ như kiểm
soát vốn) để hạn chế giao dịch - ví dụ như góp vốn, chuyển lợi nhuận và cổ tức,
thanh toán lãi hoặc tiền bản quyền - đối với các khoản đầu tư, để đảm bảo chính
phủ duy trì linh hoạt để quản lý dòng vốn biến động, bao gồm bối cảnh của cán
cân thanh toán hoặc các khủng hoảng kinh tế khác. Hơn nữa, chương này cũng xác
định rõ rằng trong Hiệp định TPP
không Bên nào bị ép buộc phải cung cấp thông tin nếu đi ngược lại quy định pháp
luật trong nước hoặc lợi ích cộng đồng, hoặc phương hại đến lợi ích thương mại hợp pháp của doanh nghiệp cụ
thể.
30. Các điều khoản cuối cùng
Chương
về Các điều khoản cuối cùng là về những hình thức mà Hiệp định TPP sẽ có hiệu lực, những hình thức
sửa đổi cam kết, những quy tắc xây dựng tiến trình để các nước và vùng lãnh thổ
khác có thể gia nhập TPP sau này, các hình thức rút ra khỏi
Hiệp định và ngôn ngữ chính được xử dụng
để công bố. Chương này nhằm đàm bảo các cam kết trong Hiệp định TPP có thể được sửa đổi, nhưng chỉ
sau khi mỗi Bên đã hoàn tất thủ tục trong nước và nộp lưu chiểu. Chương này
cũng quy định rõ rằng Hiệp định TPP
mở cho các nước thuộc thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu
Á Thái Bình Dương và những quốc gia hoặc vùng lãnh thổ khác gia nhập nếu
được các Bên đồng thuận. Hiệp định TPP
sẽ có hiệu lực theo các thủ tục cần thiết được quy định tại Chương này. Chương
về các điều khoản cuối cùng cũng quy định rõ quy trình để một Bên có thể rút ra
khỏi Hiệp định, chỉ định một cơ quan
lưu chiểu để tiếp nhận và cung cấp tài liệu, và cũng xác định tiếng Anh, Tây
Ban Nha và Pháp là những ngôn ngữ chính đồng thời được sử dụng cho Hiệp định.
Không có nhận xét nào: